Bệnh viện Quân y 103

1. Ban Giám đốc Bệnh viện Quân y 103

Giám Đốc: Thiếu tướng, GS.TS Trần Viết Tiến

Bí thư Đảng Ủy, Phó Giám Đốc: Đại tá, TS Trần Tấn Cường

Phó Giám Đốc: Đại tá, PGS.TS Vũ Nhất Định

Phó Giám Đốc: Đại tá, PGS.TS Tạ Bá Thắng

Phó Giám Đốc: Đại tá, PGS.TS Lương Công Thức

Phó Giám Đốc: Đại tá, PGS.TS Nguyễn Đình Ngân

2. Truyền thống đơn vị

Đội điều trị 3 (tiền thân của Bệnh viện 103) thành lập ngày 20/12/1950 tại thôn Trung Giáp, xã Anh Dũng (nay là xã Trung Giáp), huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.

Tháng 10 năm 1957, theo Quyết định của Tổng cục Hậu cần, Đội điều trị 3 được chuyển thành Quân y viện 103.

Tháng 12 năm 1958 Bộ quốc phòng có quyết định chuyển Quân y viện 103 thuộc quyền quản lý của Cục Quân y (Tổng cục Hậu cần) về trực thuộc Trường sỹ quan Quân y và trở thành bệnh viện thực hành của Trường

Ngày 21 tháng 5 năm 1989 Bộ Tổng tham mưu có Quyết định số 183/QĐ-TM công nhận Viện Quân y 103 là Bệnh viện hạng I của Quân đội. Năm 1995 Viện Quân y 103 được đổi tên thành Bệnh viện 103

Ngày 23 tháng 01 năm 2014 Bộ Quốc Phòng có Quyết định Số 214/QĐ-BQP quyết định đổi tên Bệnh viện 103 thành Bệnh viện Quân y 103.

Theo sát cuộc cách mạng của dân tộc, trải qua hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành, Bệnh viện Quân y 103 đã có những đóng góp đáng kể vào thành tựu cách mạng chung của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Từ một đội điều trị, biên chế trên 60 người, gồm một bác sỹ, một số sinh viên y khoa và một số y sỹ, y tá, nhân viên, với nhiệm vụ chủ yếu là cấp cứu, điều trị ngoại khoa phục vụ chiến đấu, đã trở thành bệnh viện đa khoa hạng I có một số chuyên khoa tuyến cuối của Quân đội, bao gồm 49 bộ môn, khoa, trung tâm, phòng, ban và trên 1000 cán bộ, nhân viên.

Từ một chi bộ cơ sở với 5 đảng viên, đến nay tổ chức đảng Bệnh viện trở thành đảng bộ cấp trên trực tiếp tổ chức cơ sở đảng có 7 đảng bộ cơ sở và 42 chi bộ cơ sở trực thuộc với trên 1000 đảng viên. Công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh luôn được kết hợp chặt chẽ với công tác xây dựng Bệnh viện vững mạnh toàn diện. Việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn được Đảng bộ Bệnh viện coi trọng. Các tổ chức quần chúng: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Công đoàn và Hội đồng Quân nhân được tổ chức chặt chẽ, phát huy tốt dân chủ ở cơ sở và có những đóng góp tích cực trong việc hoàn thành nhiệm vụ của Bệnh viện.

3. Chức năng nhiệm vụ:

Chức năng: Là bệnh viện thực hành của Học viện Quân y, có nhiệm vụ tham gia đào tạo trình độ đại học, sau đại học, đào tạo liên tục ngành y, dược học trong Quân đội và ngành y tế. Thực hiện khám bệnh, chữa bệnh cho bộ đội và Nhân dân. Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về y, dược học và y, dược học quân sự phục vụ đào tạo và khám bệnh, chữa bệnh. Chỉ huy, quản lý cơ quan, đơn vị thuộc quyền theo quy định của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và Học viện Quân y.

Nhiệm vụ của Bệnh viện:

Về nhiệm vụ đào tạo: Từ một cơ sở huấn luyện lâm sàng với 20 giáo viên làm nhiệm vụ huấn luyện chủ yếu cho các lớp quân y sỹ, đến nay Bệnh viện đã trở thành Bệnh viện huấn luyện của Học viện quân y. Những năm gần đây, với đội ngũ gần 300 giảng viên, Bệnh viện đã đảm nhiệm gần 70% khối lượng đào tạo hằng năm của Học viện cho các bậc đại học đến cao học và nghiên cứu sinh với lưu lượng từ 100 – 120 lớp cho 3000 đến 4000 học viên. Đối tượng, loại hình đào tạo đa dạng (Bác sỹ dài hạn quân y, Bác sỹ dài hạn dân y, Cử nhân điều dưỡng; Bác sỹ chuyên khoa I, chuyên khoa II, Nghiên cứu sinh; chuyên khoa sơ bộ các chuyên ngành…), ngoài huấn luyện cho các đối tượng học viên tại Bệnh viện, Bệnh viện còn mở rộng phạm vi đào tạo ra nhiều Bệnh viện, các cơ sở y tế trong cả nước.

Về nhiệm vụ điều trị: Từ một cơ sở ban đầu với những lán trại bằng tranh tre, nứa, lá ở rừng chiến khu Việt Bắc, với một chiếc nồi hấp, hai bộ dụng cụ tiểu phẫu thuật…, đến nay Bệnh viện đã có nhiều trang thiết bị hiện đại: chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, xạ trị điều trị ung thư, siêu âm màu bốn chiều, các máy xét nghiệm thế hệ mới…, trình độ chuyên môn các khối Nội, Ngoại chuyên khoa và Cận lâm sàng phát triển đều, trong đó đã chú trọng phát triển nhiều kỹ thuật mũi nhọn, các xét nghiệm bậc cao và chuyên sâu đã tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế như:

Trong điều trị cấp cứu nội khoa: Chẩn đoán, xử trí tốt nhồi máu cơ tim có biến chứng sốc tim, rối loạn nhịp tim phức tạp, suy tim nặng, đột quỵ não, suy hô hấp cấp, nhiễm khuẩn huyết, điều trị suy gan cấp; triển khai thành công nhiều kỹ thuật như: đặt van 1 chiều điều trị khí phế thũng, nội soi tiêu hóa, giúp chẩn đoán nhanh, chính xác và điều trị hiệu quả các bệnh lý về tiêu hóa và thực hiện thành công nhiều kỹ thuật khó như: nội soi mật tụy ngược dòng lấy sỏi ống mật chủ; thắt tĩnh mạch thực quản qua nội soi trong điều trị chảy máu tiêu hóa do giãn vỡ tĩnh mạch thực quản cho bệnh nhân xơ gan; đặt Stent cho bệnh nhân ung thư thực quản không cần chỉ định phẫu thuật, nhằm mục đích tăng cường chất lượng sống cho bệnh nhân…

Trong điều trị ngoại khoa: Đối với kỹ thuật mổ tim mở, thực hiện thành thạo phẫu thuật vá lỗ thông liên nhĩ, liên thất, thay van tim, làm cầu nối chủ vành, thay động mạch chủ bụng, chủ ngực bị phình bóc tách bằng mạch máu nhân tạo; phẫu thuật lồng ngực: Mổ nội soi cắt phân thùy, thùy phổi, cắt toàn bộ 1 bên phổi điều trị các khối u phổi, cắt u và hạch trung thất, cắt toàn bộ tuyến giáp trong ung thư tuyến giáp; Phẫu thuật thần kinh: thực hiện các kỹ thuật mổ vi phẫu để cắt các dị dạng mạch máu não, cắt u não có kết hợp gây tắc mạch nuôi u chủ động; điều trị giảm áp lực nội sọ bằng kỹ thuật đặt van dẫn lưu não thất…; Chấn thương chỉnh hình: Đã kết hợp với kỹ thuật vi phẫu trồng nối các chi thể đứt rời, trám các tổn khuyết phần mềm lớn bằng vạt da cơ tự do có cuống nuôi; áp dụng phổ biến phẫu thuật nội soi trong điều trị các bệnh lý về khớp, thay khớp gối, khớp háng bằng khớp nhân tạo, kết xương bằng đinh nội tuỷ có chốt ngang, chỉnh hình chi do các khuyết tật bẩm sinh, điều trị mất đoạn xương bằng phương pháp kết xương 2 ổ theo nguyên lý Ilizarov, ghép xương tự do có nối mạch nuôi bằng kỹ thuật vi phẫu, chỉnh hình các bệnh lý cong vẹo cột sống và các bệnh lý của đĩa đệm cột sống…

Trong điều trị cận lâm sàng: Thực hiện các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh bằng chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ (MRI), siêu âm, đánh giá chức năng tim mạch bằng siêu âm tim màu 4D, siêu âm qua thực quản, siêu âm nội soi…; chuyên ngành giải phẫu bệnh lý được đầu tư phát triển, giúp chẩn đoán chính xác nhiều loại bệnh, nhất là trong chẩn đoán ung thư như: Chọc hút và sinh thiết dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính, siêu âm. Kỹ thuật hóa mô miễn dịch giúp chẩn đoán xác định ung thư, nguồn gốc tế bào ung thư, các thụ thể tế bào ung thư từ đó lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu…

Nhiều kỹ thuật mới, kỹ thuật khó được ứng dụng thành công, thường xuyên cập nhật những tiến bộ kỹ thuật mới, tiên tiến trên thế giới trong điều trị cho người bệnh. Các kỹ thuật mới với những đặc tính ưu việt, giúp cho chẩn đoán chính xác, điều trị triệt để, đạt hiệu quả cao trong hồi phục sức khoẻ bệnh nhân, hồi phục chức năng, nâng cao tính thẩm mỹ, nâng cao chất lượng sống và an toàn được đồng nghiệp trong nước, nước ngoài thừa nhận và mến phục. Thành công của ca ghép tim đầu tiên trên người từ người cho chết não ngày 17/6/2010. Đặc biệt ca ghép Tụy – Thận đầu tiên trên người tại Việt Nam từ người cho chết não hiến tạng vào ngày 01/3/2014, do 100% các Y, bác sỹ Bệnh viện Quân y 103 và Học viện Quân y tiến hành cùng với kỷ lục một ngày ghép 3 ca: 1 ca tim, 2 ca thận đã cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của đội ngũ các Y, bác sỹ ngày hôm nay.

Về nhiệm vụ nghiên cứu khoa học: Thực hiện phương châm “đi tắt đón đầu trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; lấy phát triển khoa học làm động lực nâng cao chất lượng đào tạo và điều trị, đồng thời có giải pháp đồng bộ trong tập hợp lực lượng; phát huy nhiệt tình, trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học” cùng với Học viện, Bệnh viện đã trở thành một trong những đơn vị đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ và đạt được những bước phát triển vượt bậc. trong đó có những đề tài thực hiện trong nhiều năm và có ý nghĩa xã hội cao như ghép tim, ghép tuỵ thận từ người cho chết não, các đề tài ứng dụng công nghệ tiên tiến trong điều trị, các đề tài nghiên cứu về thu dung điều trị nạn nhân chất độc da cam/DIOXIN do đế quốc Mỹ gây ra trong chiến tranh Việt Nam. Thành công của kỹ thuật ghép gan, ghép thận trên người là một thành tựu khoa học có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã hội và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Cùng với nhiều công trình khoa học có giá trị cao, Bệnh viện đã ghi danh vào lịch sử nền y học nước nhà, trong khu vực và thế giới, khi tham gia “Cụm công trình ghép tạng”, là cơ sở khoa học để Bệnh viện lần lượt thực hiện thành công ca ghép gan (năm 2004) và ghép tim trên người tại Việt Nam (năm 2010). Với giá trị khoa học và giá trị thực tiễn cao, đặc biệt xuất sắc, “Cụm công trình Ghép tạng” được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ. Đây là công trình khoa học duy nhất của Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y thuộc lĩnh vực Y – Dược học được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2005). Từ những thành công đó đã mở ra cơ hội mang lại sự sống cho những người mắc các bệnh hiểm nghèo về gan, thận, tim… Đồng thời là động lực thúc đẩy một loạt chuyên ngành Y học phát triển, góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của nền ngành y học quân sự nói chung và y tế nước nhà nói riêng.

4. Thành tích đạt được

Từ ngày thành lập đến nay, Bệnh viện có: 18 giáo sư, 130 phó giáo sư, 7 tiến sĩ khoa học, 216 tiến sĩ, hàng trăm bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II và thạc sĩ cùng với nhiều cán bộ chuyên môn, chính trị, quân sự, hậu cần có trình độ đại học và trên đại học…, 12 Thầy thuốc  Nhân dân, 151 Thầy thuốc Ưu tú, 6 Nhà giáo Nhân dân, 9 Nhà giáo Ưu tú, 26 đồng chí đã từng học tập và công tác tại Bệnh viện được thăng quân hàm cấp tướng; 7 cá nhân và 6 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 1 cá nhân được tặng danh hiệu Anh hùng lao động

Trải qua hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành, Bệnh viện luôn nhận được sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp: Bộ Quốc phòng, Cục Quân y, Học viện Quân y; sự giúp đỡ có hiệu quả của Bộ y tế, các cơ sở y tế trong cả nước; sự đùm bọc của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương nơi Bệnh viện đóng quân cùng với sự nỗ lực không mệt mỏi của lớp lớp các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sỹ của Bệnh viện qua các thời kỳ đã xây đắp nên truyền thống vô cùng quý báu và tạo dựng vị thế như ngày nay cho đơn vị.

Hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành, Đội Điều trị 3, Viện Quân y 103, Bệnh viện 103, Bệnh viện Quân y 103 đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước:

Góp phần cùng Học viện Quân y đào tạo cho đất nước hàng chục vạn cán bộ, nhân viên y tế;

Khám bệnh, điều trị cho hàng triệu thương binh, bệnh binh, bộ đội và nhân dân; luôn bám sát chiến trường, bám sát thực tế đơn vị, tích cực làm công tác chỉ đạo và phục vụ tuyến, đảm bảo quân y cho đảo Nam Yết (Trường Sa), giúp đỡ các Bệnh viện và cơ sở y tế tuyến trước, tham gia tích cực Chương trình 12 (quân dân y kết hợp), tham gia bệnh viện dã chiến tại Nam Xu – Đăng

Hàng ngàn đề tài nghiên cứu khoa học có giá trị thực tiễn cao được áp dụng trong khám, chữa bệnh cho bộ đội và nhân dân.

Ghi nhận những thành tích mà các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sỹ của Bệnh viện qua các thời kỳ đã đạt được, Đảng, Nhà nước, Quân đội, các Bộ, Ngành của Trung ương và các địa phương đã tặng thưởng cho đơn vị nhiều phần thưởng cao quý:

– 1 Huân chương Hồ Chí Minh (2015)

– 3 lần Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (1989, 2009, 2014).

– 3 Huân chương Quân công. (1980, 1985, 2005)

– 5 Huân chương Chiến công. (1969, 1974, 1983, 1995, 2000)

– 1 Huân chương Độc lập. (2012)

– 3 Huân chương Lao động. (2011, 2014, 2021)

– 1 Huân Chương Ixala của Nhà nước Cộng hoà DCND Lào (năm 2011)

– Là một trong 12 tập thể và là Bệnh viện duy nhất trong cả nước được vinh danh trong chương trình “Vinh quang Việt Nam – Dấu ấn 30 năm đổi mới”

– 2 Cờ thưởng của Bộ Quốc phòng “Đơn vị có môi trường văn hóa”

– Được Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam và Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam vinh danh là ”Bệnh viện thân thiện vì sức khoẻ cộng đồng”.

– Nhiều Cờ thưởng, Bằng khen các loại.

– 8 đơn vị (Bộ môn – Khoa Bỏng; Bộ môn – Khoa Tim, Thận, Khớp, Nội tiết; Bộ môn – Khoa Chấn thương chỉnh hình; Bộ môn – Khoa Ngoại bụng; Bộ môn – Khoa Phẫu thuật thần kinh; Bộ môn – Khoa Nội Truyền nhiễm, Phòng hậu cần – Kỹ thuật, Khoa Dược) được tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

– Nhiều đơn vị được tặng thưởng Huân chương, Cờ thưởng, Bằng khen các loại.

– Nhiều cá nhân được tặng đồng giải thưởng Hồ Chí Minh về nghiên cứu khoa học.

5. Sứ mạng, tầm nhìn và giá trị cốt lõi của Bệnh viện Quân y 103 

5.1. Sứ mạng

Khám, chữa bệnh, tư vấn sức khỏe, đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bộ đội và nhân dân; tham gia đào tạo nguồn nhân lực y tế chất lượng cao; nghiên cứu khoa học y học và y học quân sự, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến.

5.2. Tầm nhìn

Phấn đấu trở thành bệnh viện đa khoa hiện đại hàng đầu – cơ sở thực hành y khoa mẫu mực; nghiên cứu khoa học, y học chuyên sâu. 

5.3. Giá trị cốt lõi

Chuyên nghiệp – Hiệu quả – An toàn – Hợp tác.

6. Thông tin liên hệ

Địa chỉ: Số 261 đường Phùng Hưng, Phúc La, Hà Đông, Hà Nội

Websites: benhvien103.vn

Email: hospital103@benhvien103.vn

Đường dây nóng: 0967811616